Thuật ngữ tài chính ngữ rất rộng, bao hàm hàng loạt các hoạt động về tiền, quá trình nghiên cứu và tạo ra tài sản, tín dụng, ngân hàng, khoản nợ,… sẽ tạo nên một hệ thống tài chính.
Tài chính là gì?

Tài chính (finance) là một phạm trù kinh tế thể hiện mối quan hệ của cải trong xã hội dưới hình thức giá trị phát sinh khi hình thành, phân phối quỹ tiền tệ của chủ thể kinh tế nhằm đáp ứng mục tiêu các chủ thể đặt ra trong mỗi điều kiện nhất định.
Về mặt bản chất:
- Thể hiện các mối quan hệ tài chính khi phân phối tổng sản phẩm xã hội bằng hình thức tổng giá trị, qua đó tạo nên các quỹ tiền tệ để đáp ứng nhu cầu tích lũy, tiêu dùng của chủ thể kinh tế.
- Phản ánh đầy đủ các mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối nguồn tài chính bằng việc tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ.
- Xu hướng phát triển của kinh tế được phản ánh thông qua giá cả hàng hóa trên thị trường. Giá cả hàng hóa giảm sẽ kéo theo hiệu quả kinh tế suy giảm và ngược lại, giá cả hàng hóa tăng sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế (ngoại trừ hiện tượng lạm phát).
Nhắc tới tài chính, chúng ta không thể không đề cập đến thuật ngữ quỹ tiền tệ. Quỹ tiền tệ là một số lượng nhất định các nguồn tài chính đã được huy động để phục vụ cho mục đích nhất định.
Quỹ tiền tệ luôn thể hiện các mối quan hệ sở hữu. Khi một giai đoạn vận động nào đó của quỹ kết thúc, mỗi chủ thể đại diện cho hình thức sở hữu này hoặc hình thức sở hữu khác sẽ nhận về một phần nguồn lực tài chính.
Tài chính ra đời khi nào?
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của tài chính được quyết định bởi nhân tố khách quan là sản xuất hàng hóa và tiền tệ. Bên cạnh đó, nhân tố mang ý nghĩa định hướng nhằm tạo điều kiện, hành lang pháp lý và điều tiết sự phát triển của tài chính lại là nhà nước.
1. Tài chính ra đời do sản xuất hàng hóa và tiền tệ
Sự ra đời của nền kinh tế sản xuất hàng hóa cũng như tiền tệ bắt nguồn từ khi xã hội xuất hiện hiện tượng phân công lao động, chiếm hữu tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Quỹ tiền tệ hình thành và được sử dụng bởi các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội hay cá nhân với mục đích tiêu dùng và đầu tư cho sự phát triển kinh tế. Chính mối quan hệ này đã làm nảy sinh phạm trù tài chính.
Các nguồn tài chính xuất hiện do sự ra đời của nền kinh tế sản xuất hàng hóa và tiền tệ. Lúc này, tài chính đại diện cho của cải xã hội, được biểu hiện dưới hình thức giá trị. Sản xuất và trao đổi hàng hóa hình thành cũng kéo theo ngay sau đó là việc tiền tệ xuất hiện, tựa như một đòi hỏi mang tính khách quan, có vai trò như vật ngang giá chung cho quá trình trao đổi.
Trong nền kinh tế sản xuất hàng hóa, các chủ thể xã hội đã sử dụng hình thức tiền tệ để phục vụ việc phân phối sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. Từ đó tạo lập nên các quỹ tiền tệ nhằm phục vụ cho những mục đích riêng của mỗi chủ thể.
2. Tài chính ra đời do sự xuất hiện của nhà nước
Xã hội không ngừng phát triển kéo theo sự ra đời của nhà nước và thúc đẩy hoạt động tài chính sinh sôi. Để duy trì hoạt động, nhờ chức năng và quyền lực của mình, nhà nước đã lập nên quỹ ngân sách thông qua quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội bằng hình thức giá trị.
Do đó, lĩnh vực tài chính nhà nước đã hình thành, nền kinh tế hàng hóa được tạo đà phát triển và hoạt động được mở rộng thêm. Mặc dù hoạt động phân phối tài chính mang tính khách quan nhưng vẫn chịu sự chi phối trực tiếp hoặc gián tiếp của nhà nước nhờ những chính sách được ban hành và áp dụng đối với nền kinh tế như: chính sách về thuế, chính sách tiền tệ,…
Nhờ quyền lực chính trị của mình và việc thông qua một hệ thống chế độ, chính sách, nhà nước đã tạo nên môi trường mang tính pháp lý cho sự hoạt động của tài chính. Từ đó, nhà nước cũng chính thức nắm quyền đúc tiền, in tiền và lưu thông tiền tệ.
Hệ thống tài chính gồm những gì?
Hệ thống tài chính bao gồm một tổng thể các hoạt động tài chính của nhiều lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, những hoạt động này đều có mối quan hệ mật thiết về việc hình thành hay sử dụng quỹ tiền tệ ở chủ thể kinh tế – xã hội ở từng lĩnh vực. Cụ thể, một hệ thống tài chính sẽ có những thành phần sau:
- Tài chính công: bao gồm toàn bộ các hoạt động thu chi bằng tiền được nhà nước tiến hành. Tài chính công phản ánh một hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình tạo lập và sử dụng quỹ công, giúp phục vụ cho việc thực hiện các chức năng của nhà nước cũng như đáp ứng nhu cầu, lợi ích chung cho xã hội.
- Tài chính doanh nghiệp: là một thành phần trong hệ thống tài chính, nghiên cứu và tìm hiểu về lịch sử hình thành, sử dụng của cải trong doanh nghiệp để tối đa hóa lợi ích cho chủ sở hữu. Tài chính doanh nghiệp cũng đồng thời là một hệ thống các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị phát sinh trong quá trình hình thành, phân phối nguồn tài chính, quỹ tiền tệ, quá trình tạo lập và chuyển hóa nguồn vốn của doanh nghiệp. Mục đích của tài chính doanh nghiệp là phục vụ sản xuất nhằm đạt được mục tiêu chung của cả doanh nghiệp.
- Thị trường tài chính (bao gồm thị trường vốn và thị trường tiền tệ): là thị trường trao đổi chứng khoán, hàng hóa hoặc các giá trị phản ánh sự cung và cầu.
- Tài chính quốc tế: là hệ thống những quan hệ kinh tế nảy sinh giữa nhà nước hoặc các tổ chức nhà nước với nhà nước khác. Tài chính quốc tế nghiên cứu về tỷ giá hối đoái hoặc đầu tư quốc tế.
- Tài chính cá nhân, hộ gia đình: là việc quản lý tài chính mà trong đó, mỗi cá nhân hoặc mỗi gia đình sẽ thực hiện để lập ngân sách, tiết kiệm, chi tiêu tiền mặt theo thời gian và đã tính đến các rủi ro tài chính, các sự kiện có thể phát sinh trong tương lai.
- Tài chính các tổ chức xã hội: hình thành chủ yếu từ đóng góp cộng đồng hoặc ngân sách nhà nước. Các tổ chức xã hội hầu hết đều tham gia không vì mục đích lợi nhuận.
- Trung gian tài chính (bao gồm bảo hiểm và tín dụng): là một tổ chức hoặc cá nhân đứng giữa hai hay nhiều bên tham gia để bảo đảm luân chuyển vốn mà đa phần là từ người cho vay và người đi vay.
Tất cả những thành phần nói trên đều có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chúng hỗ trợ và góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của tài chính. Mọi cá nhân, doanh nghiệp hay tổ chức Chính phủ để có thể duy trì hoạt động đều cần đến nguồn vốn. Vì vậy, lĩnh vực tài chính bao gồm ba danh mục chủ yếu, đó là: tài chính cá nhân, tài chính doanh nghiệp và tài chính công. Bên cạnh đó, quản lý đầu tư và quản lý rủi ro cũng là những tập hợp con khác của tài chính.
- Quản lý đầu tư: là việc quản lý chuyên nghiệp nhiều loại tài sản khác nhau như: cổ phần, trái phiếu, bất động sản,… để đáp ứng mục tiêu đầu tư cụ thể vì lợi ích của nhà đầu tư. Nhà đầu tư có thể là các tổ chức (quỹ hưu trí, tổ chức từ thiện, cơ sở giáo dục, tập đoàn, công ty bảo hiểm,…) hoặc nhà đầu tư cá nhân. Hoạt động quản lý đầu tư diễn ra trực tiếp thông qua hợp đồng đầu tư hoặc các chương trình đầu tư tập thể (quỹ tương hỗ, quỹ trao đổi, quỹ tín thác đầu tư bất động sản REIT,…).
- Quản lý rủi ro: là việc xác định, đánh giá và ưu tiên hóa rủi ro để áp dụng hợp lý, tiết kiệm mọi nguồn lực. Điều này sẽ giúp theo dõi, kiểm soát, giảm thiểu xác suất xảy ra hoặc ảnh hưởng của các sự kiện không may cũng như tối đa hóa việc thực hiện các cơ hội khác. Mục tiêu của quản lý rủi ro là đảm bảo sự không chắc chắn sẽ không làm lệch hướng hoạt động của các mục tiêu kinh doanh.
Lý thuyết tài chính
Lý thuyết tài chính được phân thành các loại khác nhau, bao gồm: tài chính quản lý, kinh tế tài chính, toán tài chính và tài chính hành vi.
1. Tài chính quản lý
Tài chính quản lý là một nhánh nhỏ của ngành Tài chính có liên quan tới ý nghĩa quản lý của các kỹ thuật tài chính. Tài chính quản lý tập trung vào việc đánh giá hơn là kỹ thuật, một cách tiếp cận liên ngành được vay mượn từ cả kế toán quản trị cũng như tài chính doanh nghiệp.

Mục đích của tài chính quản lý là tạo ra giá trị, sự nhanh nhạy của tổ chức thông qua việc phân bổ nguồn lực khan hiếm trong các cơ hội kinh doanh cạnh tranh. Có sự trợ giúp của tài chính quản lý, việc thực hiện và giám sát các chiến lược kinh doanh sẽ trở nên thuận lợi hơn, giúp đạt được các mục tiêu kinh doanh đã đề ra trước đó.
2. Kinh tế tài chính
Kinh tế tài chính là một nhánh nhỏ của ngành Kinh tế học, có vai trò phân tích về việc sử dụng và phân phối các nguồn lực của thị trường mà ở đó mọi quyết định đều được đưa ra trong bối cảnh không chắc chắn, dễ bị thay đổi.
Quyết định tài chính luôn phải tính toán đến các sự kiện có thể xảy ra trong tương lai, mặc cho quyết định đó chỉ có liên quan tới một loại cổ phiếu, một danh mục đầu tư hay toàn bộ thị trường.
Việc đưa ra quyết định tài chính không phải lúc nào cũng đơn giản. Yếu tố thời gian, rủi ro, chi phí, cơ hội và thông tin bên cạnh việc có thể tạo động lực cũng sẽ ảnh hưởng tới người đưa ra quyết định, khiến họ nản lòng, thoái chí.
Kinh tế tài chính sử dụng lý thuyết kinh tế để đánh giá cách thức mà một số vấn đề có thể gây ảnh hưởng tới quá trình đưa ra quyết định. Từ đó cung cấp cho nhà đầu tư những công cụ hữu ích nhằm đưa ra lựa chọn chính xác cuối cùng. Kinh tế tài chính xoay quanh vấn đề tạo lập các mô hình tinh vi, phức tạp nhằm phục vụ việc kiểm tra phương pháp mà các biến ảnh hưởng lên một quyết định cụ thể.
Thông thường, các mô hình đó sẽ giả định rằng mỗi cá nhân hoặc tổ chức đều đã đưa ra quyết định hành động hợp lý, mặc dù điều này không phải lúc nào cũng chính xác. Lúc này, hành vi phi lý trí của các bên cần được lường trước như một yếu tố rủi ro tiềm ẩn trong kinh tế tài chính.
Nhìn chung, kinh tế tài chính có chức năng nghiên cứu về giá trị hợp lý, giá trị rủi ro, lợi nhuận, chứng khoán và tài sản. Ngoài ra, một số các yếu tố tiền tệ khác cũng được xem xét trong thuyết này có thể kể đến là lãi suất, lạm phát.
3. Toán tài chính
Toán tài chính là một phân ngành của Toán học ứng dụng có chức năng tìm hiểu, nghiên cứu về thị trường tài chính. Toán tài chính thừa kế và mở rộng các mô hình toán học hay mô hình con số mà không cần đến việc thiết lập một liên kết đến lý thuyết tài chính mà sẽ thông qua phương pháp lấy giá cả thị trường để quan sát như đầu vào.
4. Tài chính hành vi
Tên gọi tiếng Anh của tài chính hành vi là Behavioral Finance, một lĩnh vực thuộc ngành Kinh tế học hành vi với chức năng đề xuất các lý thuyết tâm lý học nhằm giải thích những sự kiện bất thường trên thị trường chứng khoán. Ví dụ như sự tăng hoặc giảm của giá cổ phiếu.
Mục đích của tài chính hành vi là tìm hiểu và xác định lý do vì sao mọi người lại đưa ra một lựa chọn tài chính nào đó. Thuyết tài chính hành vi giả định rằng, cấu trúc thông tin và đặc điểm của những người tham gia thị trường sẽ ảnh hưởng một cách có hệ thống tới quyết định đầu tư của họ cũng như kết quả cuối cùng.
Chức năng của tài chính
Nếu coi tài chính là một phạm trù kinh tế và sự tồn tại, phát triển của tài chính là quy luật khách quan thì chức năng của tài chính là những đặc điểm vốn có của nó. Những chức năng tài chính nảy sinh khi xuất hiện phạm trù tài chính được hoàn thiện dần cùng quá trình phát triển của nền kinh tế sản xuất hàng hóa, tiền tệ và nhà nước.
1. Chức năng huy động
Chức năng huy động giúp tạo lập các nguồn tài chính khác nhau, qua đó thể hiện khả năng tổ chức và khai thác nguồn tài chính để đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Trong đó, việc huy động nguồn vốn cần phải tuân theo cơ chế thị trường, quan hệ cung – cầu cũng như giá cả của vốn.
2. Chức năng phân phối
Chức năng phân phối là một khả năng mang tính khách quan của phạm trù tài chính. Con người nhận thức được và áp dụng khả năng khách quan này cho việc tổ chức, phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị. Lúc ấy, tài chính được sử dụng như một công cụ dùng để phân phối.
Nhờ có chức năng phân phối, các nguồn tài lực đại diện cho bộ phận của cải xã hội sẽ được đưa vào nhiều quỹ tiền tệ để sử dụng cho những mục đích khác nhau hay đảm bảo hàng loạt nhu cầu, lợi ích trong đời sống xã hội.
Phân phối tài chính là sự phân chia tổng sản phẩm xã hội bằng hình thức giá trị. Thông qua chức năng phân phối, các quỹ tiền tệ tập trung và không tập trung đã được hình thành và vận dụng cho từng mục đích nhất định.
Phân phối tài chính bao gồm:
- Phân phối lần đầu: phân phối tại các khâu cơ sở, những khâu tham gia trực tiếp vào hoạt động sản xuất.
- Phân phối lại: phân phối cho các khâu không tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất mà chỉ để đảm bảo các hoạt động xã hội diễn ra bình thường.
Trên thực tế, phân phối tài chính được phân chia thành ba loại chủ yếu, đó là:
- Phân phối tài chính có hoàn lại, có thời hạn (ví dụ như tín dụng).
- Phân phối tài chính không hoàn lại (ví dụ như ngân sách nhà nước).
- Phân phối tài chính hoàn lại có điều kiện (ví dụ như bảo hiểm).
a. Đối tượng phân phối
Đối tượng phân phối tài chính là của cải xã hội dưới hình thức giá trị hay là tổng thể các nguồn tài chính của xã hội. Xét về mặt nội dung, nguồn tài chính bao gồm các thành phần như sau:
- Bộ phận của cải xã hội mới được tạo ra trong kỳ (ví dụ như tổng sản phẩm trong nước GDP).
- Bộ phận của cải xã hội còn dư lại từ kỳ trước đó (ví dụ như phần tích lũy quá khứ của xã hội và dân cư).
- Bộ phận của cải xã hội được chuyển từ nước ngoài vào trong nước.
- Bộ phận của cải xã hội được chuyển từ trong nước ra nước ngoài.
- Bộ phận của cải xã hội là tài sản, tài nguyên quốc gia có thể cho thuê, nhượng lại có thời hạn.
Xét về mặt hình thức, tài chính tồn tại dưới hai dạng chủ yếu là:
- Nguồn tài chính hữu hình: tồn tại dưới dạng hình thái giá trị và hình thái hiện vật.
- Nguồn tài chính vô hình: không có hình thái vật chất và rất khó để đánh giá.
b. Chủ thể phân phối
Nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức xã hội, hộ gia đình và cá nhân chính là những chủ thể phân phối tài chính.
c. Kết quả phân phối
Kết quả phân phối tài chính sẽ dẫn đến sự hình thành hay sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định cho từng mục đích khác nhau của chủ thể xã hội.
d. Đặc điểm của phân phối
- Phân phối tài chính là sự phân chia chỉ diễn ra thông qua hình thức giá trị mà không kèm theo bất cứ sự thay đổi nào về hình thái của giá trị.
- Phân phối tài chính luôn luôn đi liền với quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định.
- Phân phối tài chính diễn ra với tần suất thường xuyên, liên tục, bao gồm cả phân phối lần đầu lẫn phân phối lại.
3. Chức năng giám sát
Chức năng giám sát giúp kiểm tra sự vận hành của các nguồn tài chính trong quá trình hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ. Thông qua chức năng này, quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới hình thức giá trị sẽ được kiểm tra và điều chỉnh kịp thời để phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế trong mỗi thời kỳ, đồng thời cũng giúp kiểm tra các chế độ tài chính của nhà nước.
Vai trò của tài chính đối với nền kinh tế
Từ những chức năng kể trên, chúng ta có thể thấy rằng tài chính đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế của một quốc gia.
1. Phân phối sản phẩm quốc dân
Nhà nước phân bổ các nguồn thu từ ngân sách để đầu tư vào những lĩnh vực được khuyến khích phát triển, các ngành kinh tế trọng điểm của quốc gia và kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội. Từ đó sẽ tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi nhằm kích thích, thu hút những nguồn vốn từ các thành phần kinh tế trong nước và quốc tế.
Ngoài ra, để bộ máy nhà nước hoạt động hiệu quả cũng như duy trì, phát triển lĩnh vực y tế, văn hóa, giáo dục, xã hội,… Nhà nước phải phân phối nguồn tài chính vào các lĩnh vực theo một tỷ lệ nhất định, đảm bảo mối quan hệ cân đối trong nền kinh tế như: tích lũy – tiêu dùng, tiết kiệm – đầu tư,… cho từng giai đoạn phát triển của quốc gia.
Phân phối tài chính cũng được nhà nước sử dụng như một loại công cụ giúp điều hòa thu nhập giữa các đơn vị, các thành viên trong xã hội để đảm bảo tính hợp lý, công bằng cần có.
Đối với các doanh nghiệp, cơ chế tài chính do họ thiết lập và thực hiện có vai trò quan trọng để kích thích tiết kiệm, kích thích đầu tư và tái đầu tư, giúp mở rộng, nghiên cứu hoặc cải tiến hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó nâng cao năng suất lao động, hiệu quả kinh tế và hoàn thành được những mục tiêu đã đề ra. Đối với các tổ chức xã hội hay cá nhân, hộ gia đình, tài chính cũng có vai trò tương tự.
2. Quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Bên cạnh vai trò phân phối sản phẩm quốc dân, tài chính còn được coi là công cụ quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế với các mặt chủ yếu là:
- Gây tác động giúp các mối quan hệ kinh tế vận hành theo định hướng của nhà nước.
- Hướng dẫn hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, tổ chức kinh tế – xã hội phù hợp với các chính sách kinh tế nhà nước ban hành.
- Kiểm soát và điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế để ứng phó với những biến động.
Trong nền kinh tế thị trường, nhà nước quản lý kinh tế bằng một hệ thống cơ chế, chính sách, luật pháp và các công cụ kinh tế. Tuy nhiên trong tài chính, nhà nước không can thiệp trực tiếp vào hoạt động của các chủ thể kinh tế mà thay vào đó lại can thiệp gián tiếp thông qua những bộ luật, chính sách hay công cụ tài chính nhằm điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
3. Góp phần xây dựng ngân sách nhà nước hùng mạnh
Ngân sách nhà nước là một khâu quan trọng trong hệ thống tài chính, là cơ sở để tiến hành điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Nhiệm vụ quan trọng nhất của ngân sách nhà nước là phải trở nên hùng mạnh, đủ thực lực để làm chỗ dựa cho việc thực thi các mối quan hệ điều tiết. Ngân sách điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua thuế, quỹ dự trữ quốc gia hoặc các biện pháp tài trợ.

Thuế là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế linh hoạt và hiệu quả nhất. Vai trò điều tiết của thuế thể hiện qua việc xác lập một hệ thống các loại thuế, thuế suất, chế độ ưu đãi, miễn giảm thuế khác nhau, nhằm tác động vào nhiều mối quan hệ kinh tế. Từ đó có thể hoàn thành được mục tiêu nhà nước đã hoạch định.
4. Huy động, sử dụng có hiệu quả các chính sách tài trợ
Việc thực hiện các biện pháp tài trợ trọng điểm sẽ góp phần khuyến khích, thúc đẩy sự hình thành và phát triển các của ngành kinh tế chủ chốt của quốc gia. Việc tài trợ được thực thi thông qua nhiều cách thức khác nhau, ví dụ như: chế độ miễn thuế, chế độ giảm thuế, chế độ hưởng lãi suất tín dụng ưu đãi, chế độ hỗ trợ đầu tư, chế độ bù lỗ, chế độ trợ giá,…
5. Đảm bảo quá trình vận hành kinh tế diễn ra thuận lợi
Quá trình vận hành kinh tế sẽ được đảm bảo diễn ra thuận lợi nếu quỹ dự trữ tài chính quốc gia phát triển hùng mạnh. Nhờ vào quỹ dự trữ, nhà nước có thể ứng phó với những biến động tiêu cực và nhanh chóng tiến hành phục hồi nền kinh tế khi thiệt hại xảy ra.
Trên đây là toàn bộ giải đáp “tài chính có nghĩa là gì?” mà mình đã tìm hiểu và tổng hợp được. Mong rằng bài viết này sẽ góp phần giúp các bạn có thêm hiểu biết về lĩnh vực này!
Tác giả: Nguyễn Công Phúc